Tiện ích cho người mua ô tô
|
Trong giai đoạn 1988 – 2000, tại Nhật Bản, Lancer được phát triển từ mẫu xe cỡ nhỏ Mirage. Các biến thể sedan của Mirage được bán tại các thị trường xuất khẩu với tên gọi Lancer, ngoại trừ Mỹ. Tại thị trường nội địa, Lancer và Mirage sedan tồn tại song song nhau với một số khác biệt nhỏ tùy phiên bản. Biến thể Mirage coupé sản xuất trong khoảng 1991 – 1995 cũng thuộc dãy sản phẩm Lancer tại một số thị trường.
Mirage thế hệ thứ năm được tung ra thị trường Nhật Bản vào tháng 10/1995 và giới thiệu lần lượt ba kiểu thân xe coupé 2 cửa, hatchback 3 cửa và sedan 4 cửa. Phiên bản sedan có chiều dài cơ sở 2,500 mm, chiều dài 4,410 mm, chiều rộng 1,690 mm và chiều cao dao động từ 1,335 mm – 1,390 mm.
Mẫu xe được trang bị hệ dẫn động cầu trước hoặc hai cầu. Bên cạnh động cơ diesel 2.0L I4 4D68, nhà sản xuất còn cung cấp các lựa chọn động cơ xăng: 1.3L I4 4G13, 1.5L I4 4G15, 1.6L I4 4G92, 1.8L I4 4G93, 1.8L I4 4G93 và1.8L V6 6A11. Hộp số sử dụng là hộp số tay 5 cấp hoặc hộp số tự động 4 cấp.
Mitsubishi nâng cấp Mirage vào năm 1997 và sedan Lancer nhận được một số thay đổi nhỏ nhằm cá biệt hóa mẫu xe này với Mirage, bao gồm lưới tản nhiệt với, bố trí lại phần bên trong đèn pha. Đèn hậu được thiết kế lại trên cả hai biến thể sedan và coupe. Năm 2001, các mẫu xe Mirage tại một số thị trường giới hạn được lắp lưới tản nhiệt mạ crôm.
Tại Việt Nam
Phiên bản phân phối chính thức cho thị trường Việt Nam (từ tháng 5/2000) sử dụng động cơ 1.6L I4 4G92 công suất cực đại 103 mã lực (SAE) tại vòng tua 6,000 vòng/phút, hộp số tay 5 cấp và hệ dẫn động cầu trước.
Các tiện nghi tiêu chuẩn gồm có cửa kính chỉnh điện, khóa cửa và khóa kính trung tâm, hệ thống âm thanh 4 loa. Giá bán vào năm 2001 khoảng 24,000 USD.
BTV Tịnh Giang - Motoring.vn