Thế hệ thứ hai của Land Rover Defender đánh dấu sự chuyển đổi tên gọi từ Ninety và One Ten sang Defender nhằm phân biệt với mẫu xe Land Rover Discovery vừa mới được ra mắt vào năm 1989.
Ở thế hệ này, Defender được chế tạo ở tất cả 5 kiểu thân xe gồm : station wagon 3 cửa (Defender 90), station wagon 5 cửa (Defender 110), pickup single cab 2 cửa (Defender 90), pickup double cap 4 cửa (Defender 130) và hardtop 2 cửa (Defender 90, 110, 130).
Chiều dài cơ sở có sự khác biệt ở từng phiên bản. Defender 90 có chiều dài cơ sở ban đầu là 2.360 mm (92,9 in), kể từ sau năm 2000 chiều dài cơ sở đuợc tăng lên 2.362 mm (93 in). Còn lại, số đo chiều dài cơ sở của Defender 110 và 130 lần lượt là 2.794 mm (110 in) và 3,226 mm (127 in).
Động cơ trang bị cho mẫu xe này gồm các lựa chọn : 2.5 L I4 turbodiesel 107 mã lực (1990 – 1994), 2.5 L I4 turbodiesel 111 mã lực (1994 – 1998), 2.4 L I4 turbodiesel 91 mã lực, 2.5 L I5 turbodiesel 122 mã lực và động cơ xăng 3.9L V8 182 mã lực.
Có 4 lựa chọn hộp số là : hộp số tay 5 cấp LT77, hộp số tay 5 cấp R380, hộp số tay 6 cấp GFT MT-82 và hộp số tự động 4 cấp ZF4-HP22.
Kể từ năm 2007, Land Rover đã tiến hành nhiều cải tiến trên mẫu xe Defender nhằm đáp ứng yêu cầu về khí thải cũng như quy định về an toàn. Những thay đổi chủ yếu đến từ hệ truyền động và nội thất (bảng điều khiển, bảng đồng hồ trung tâm, hệ thống sưởi/thông khí), nắp ca-pô xe cũng được làm mới.
BTV Enrica Lee - Motoring.vn